Hạt đậu nành là gì ?
Đậu tương, đậu nành, hoặc đậu tương (Glycine max) [3] là một loài cây họ đậu có nguồn gốc từ Đông Á, được trồng rộng rãi để lấy đậu ăn, có rất nhiều công dụng.
Đậu nành sử dụng thực phẩm chưa lên men truyền thống bao gồm sữa đậu nành, từ đó đậu phụ và vỏ đậu phụ được làm. Thực phẩm đậu nành lên men bao gồm nước tương, tương đậu lên men, nattō và tempeh.
Khô đậu nành không có chất béo (đã khử chất béo) là một nguồn protein đáng kể và rẻ cho thức ăn chăn nuôi và nhiều bữa ăn đóng gói. Ví dụ, các sản phẩm từ đậu tương, chẳng hạn như protein thực vật kết cấu (TVP), là thành phần trong nhiều sản phẩm thay thế thịt và sữa.

Đậu nành chứa một lượng đáng kể axit phytic, khoáng chất và vitamin B. Dầu thực vật đậu nành, được sử dụng trong thực phẩm và các ứng dụng công nghiệp, là một sản phẩm khác của quá trình chế biến cây đậu nành.
Đậu nành là nguồn protein quan trọng nhất để làm thức ăn cho gia súc (do đó sản xuất ra protein động vật cho con người).
Sự hình thành đậu nành
Những chiếc lá thật đầu tiên phát triển như một cặp phiến đơn. Tiếp theo cặp đầu tiên này, các nút trưởng thành hình thành các lá kép có ba phiến.
Các lá có hình tam giác trưởng thành, có ba đến bốn lá chét trên mỗi lá, thường dài từ 6–15 cm (2,4–5,9 in) và rộng 2–7 cm (0,79–2,76 in). Trong điều kiện lý tưởng, sự phát triển của thân cây vẫn tiếp tục, tạo ra các nút mới sau mỗi bốn ngày.
Trước khi ra hoa, rễ có thể phát triển 1,9 cm (0,75 in) mỗi ngày. Nếu có rhizobia, nốt sần ở rễ bắt đầu vào thời điểm xuất hiện nốt thứ ba. Nodulation thường tiếp tục trong 8 tuần trước khi quá trình lây nhiễm cộng sinh ổn định.
Các đặc điểm cuối cùng của cây đậu tương là thay đổi, với các yếu tố như di truyền, chất lượng đất và khí hậu ảnh hưởng đến hình thức của nó; tuy nhiên, cây đậu tương trưởng thành hoàn toàn thường có chiều cao từ 51–127 cm (20–50 in) và có độ sâu rễ từ 76–152 cm (30–60 in).
Cách dùng đậu nành
Đậu nành đóng vai trò quan trọng trong việc ăn chay là một loại cây trồng quan trọng trên toàn cầu, cung cấp dầu và protein. Tại Hoa Kỳ, phần lớn thu hoạch được chiết xuất bằng dung môi với hexan, và bột đậu nành đã khử chất béo “nướng” (50% protein) sau đó có khả năng chăn nuôi gia súc (ví dụ như gà, lợn, gà tây) trên quy mô công nghiệp lớn. . Các sản phẩm từ đậu tương được sử dụng trong nhiều loại thực phẩm chế biến.
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, đậu nành trở nên quan trọng ở cả Bắc Mỹ và Châu Âu, chủ yếu là thay thế cho các loại thực phẩm giàu protein khác và là nguồn cung cấp dầu ăn. Trong chiến tranh, đậu tương được Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ phát hiện làm phân bón do cố định Nitơ.